°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,.::HAPPY A1::.°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,¸
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,.::HAPPY A1::.°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,¸

o0o.::Chào mừng bạn đã đến với diễn đàn A1 – Diễn đàn trao đổi học tập và giải trí – Lớp 12A1 trường THPT Thủ Thừa – Năm học: 2010-2011::.o0o
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Thời gian - GMT+7
Latest topics
» [ẢNH] Trai tài gái sắc OFFICIAL - 10.1.2011
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby thanhqui 28.05.12 18:56

» nguoi thua ke microsoft
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby thuongducphat 01.03.12 16:10

» [ẢNH] Cắm trại 2012
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 20.01.12 11:49

» [GUNNY] Clip vượt ải gà anh hùng ngày 4/1/2012
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 04.01.12 16:51

» [GUNNY] Clip vượt Bộ lạc khó Stage 4 - 3/1/2012
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 03.01.12 19:59

» [GUNNY] Vượt ải Pháo đài hắc ám khó - 2/1/2012
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 02.01.12 15:41

» [GUNNY] Vượt ải Bộ lạc tà thần khó - 2/1/2012
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 02.01.12 15:39

» Cách làm hợp đồng hoàn hảo
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 23.12.11 21:35

» dân tah1i bih giau nhat61t việt nam
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby thuongducphat 23.12.11 17:56

» [GUNNY] Vượt ải gà anh hùng - 18/12/2011
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 18.12.11 22:58

» PoKeMon: 1 tuyệt tác
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby hieu_kiddy 15.11.11 9:07

» [ẢNH] Tri ân thầy cô OFFICIAL - 23.5.2011
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby hieu_kiddy 15.11.11 9:05

» chuc a1 DK ntl
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby hieu_kiddy 15.11.11 9:02

» 1 lời động viên
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby hieu_kiddy 15.11.11 8:48

» [GUNNY] Một lời cảm ơn
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby hieu_kiddy 15.11.11 8:46

» [ẢNH] Chia tay ngày 27.5.2011 - nhà K.Thanh
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 09.11.11 22:12

» [ẢNH] 30.4.2011 - nhà Hiếu
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby Nguyễn Nhân 03.11.11 22:35

» ĐỂ HỌC TỐT MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby arielnguyen 15.10.11 9:11

» Chào tất cả thành viên a1
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby kngan119411 09.10.11 11:21

» HTC chính thức giới thiệu Raider 4G
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitimeby thuongducphat 22.09.11 14:20

Liên kết

Xem thống kê diễn đàn

Webgame Nông trại vui vẻ

Webgame Gunny Online

Trang blog 12A1

Trang blog 12A2

Forum 12A2

Forum 12A3

Forum 12D1

Forum 10A1

Forum 10A5 - 10A8

Forum 10A6 TKT

Forum THPT Thủ Thừa

Forum THPT Tân Trụ

Forum THPT Rạch Kiến

Forum Cần Giuộc

Forum THPT Nguyễn Hữu Thọ

Forum THPT Môc Hoá

Website THPT Thủ Thừa

Danh sách thành viên

Tìm kiếm

Top posters
Nguyễn Nhân (379)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
thuongducphat (177)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
pesock2405 (66)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
ღKFCღ (51)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
arielnguyen (47)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
thanhqui (44)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
™»•SW•«™ (33)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
ngocbeonhuheo (31)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
tjna_teeny (31)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
hieu_kiddy (27)
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_voting_barVÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty 
May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar
Poll
Bạn thấy diễn đàn này thế nào?
Rất tốt
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _60%VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty
 60% [ 35 ]
Tốt, tương đối
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _10%VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty
 10% [ 6 ]
Trung bình
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _7%VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty
 7% [ 4 ]
Chưa tốt, cần cải thiện thêm
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 _22%VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty
 22% [ 13 ]
Tổng số bầu chọn : 58
Thống Kê
Hiện có 1 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 1 Khách viếng thăm

Không

Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 19 người, vào ngày 03.06.11 16:04
Statistics
Diễn Đàn hiện có 956 thành viên
Chúng ta cùng chào mừng thành viên mới đăng ký: vipvip1511

Tổng số bài viết đã gửi vào diễn đàn là 1086 in 834 subjects
Tra từ trực tuyến
Từ điển:

Từ cần tra:

Hỗ trợ trưc tuyến
Thống kê truy cập

free web page counters

Chi tiết truy cập
Đếm Web

 

 VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2

Go down 
Tác giảThông điệp
thuongducphat
Biên tập viên film
Biên tập viên film
thuongducphat


Tổng số bài gửi : 177
Công trạng : 1029
Sinh nhật : 19/10/1993
Ngày tham gia : 06/03/2010
Tuổi : 30
Đến từ : long an
Hiện đang là : hoc sinh
Giới tính : Nam

VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2   VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2 I_icon_minitime13.10.10 19:26

Dù gì thì lịch sử đã ghi rằng quân đội viễn chinh Pháp rút hết ra khỏi Việt Nam ngày 25-4-1956. Nhà thơ đại tá Cao-đài Hồ Hán Sơn đã có bài thơ “Tiển đoàn quân viễn chinh Pháp” được in trên vài nhật báo Sài Gòn một hôm trước khi toán quân cuối cùng của Pháp xuống tàu rút quân vĩnh viễn. Tác giả của bài thơ này tuy ký là Vô danh nhưng về sau được biết là Hồ Hán Sơn. Có lẽ bài thơ này là tác phẩm cuối cùng của Hồ Hán Sơn, vì không lâu sau đó ông mất tích. Một người bạn của ông đã xác nhận như vậy!

"Ánh hồng chói rạng chân trời mới / Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi

Có kẻ chiều nay về cố quận / Âm thầm không biết hận hay vui

Chiều nay, / Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời

Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh

Chiều nay trên nghĩa địa / Có một đoàn tinh binh

Cờ rũ và súng xếp / Cúi đầøu và lặng thinh

Âm thầm giả biệt người thiên cổ / Đất lạ trời xa sớm bỏ mình

Thịt nát xương tan hồn thảm bại / Nghìn năm ôm hận cỏi u minh

Hởi ơi làm lính viễn chinh / Chiều nay bước xuống tàu binh trở về

Tàu xúp lê, tàu xúp lê / Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn

Bến Bạch đằng lởn vởn hồn quê / Bước đi những buớc nặng nề

Ngày đi không biết ngày về không hay

Một ngàn chín trăm năm sáu / Một ngàn tám trăm sáu hai

Giật mình bấm đốt ngón tay / Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh

Ngày anh đến đây, / Cửa Đà nẵng tan hoang vì đại bác

Xác anh hùng, Đinh Lý gục đâu đây

Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác

Ôm quốc kỳ tử tiết giữa trùng vây

Phan Thanh Giản ngậm hờn pha thuốc độc

Bởi xâm lăng chẳng nhượng nước non nầy

Và Thăng long máu hòa ba thước đất

Mất kinh thành Hoàng Diệu ngã trên thây

Hởi ơi xương máu vẫy đầy

Chân anh dẫm đến nước nầy tóc tang

Tay gươm, tay súng / Bước nghênh, bước ngang

Anh bắn, anh giết / Anh đập, anh vằm

Anh đày Bà Rá Côn Loan / Anh đoạn Sơn La Lao Bảo

Anh đoạt hết cơm hết gạo / Anh giựt hết bạc hết vàng

Chém đàu ông lão treo hàng thịt / Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng

Cối quết trẻ thơ văng máu óc / Phanh thây sản phụ ném vào than

Con lìa mẹ, vợ lìa chồng / Cây hết trái, nhà trống không

Người chìm đáy biển, người tấp ven sông

Người ngã trên núi, người gục trong rừng

Đây Cà Mau, đó Nam Quan / Thôi rồi mảnh đất Việt Nam

Hung hăng anh bóp trong lòng tay anh

Nước tôi đang độ yên vui sống / Mít ngát hương mùa bưởi ngọt thanh

Cỏ nặng tình quê khoai mến đất / Không thương nhau lại giết nhau đành

Cắn răng tôi chịu cực hình / Vuốt râu anh hưởng công trình của tôi

Nhưng thôi, / Hận thù kể mãi bao giờ dứt,

Bút mực làm sao tả hết lời / Nói mãi nói hoài thêm tủi nhục

Linh hồn thơm ngát tổ tiên tôi / Bao năm chiến đãu ta hiểu nhau rồi

Cái gì tàn ác và bạo ngược / Là trái lòng dân nghich ý trời

Sắt thép tinh ròng binh tướng dữ / Không sao thắng được trái tim người

Anh về là phải anh ơi / Về bây giờ để cho đời nhớ anh

Việt nam nước của tôi / Sông sâu đồng rộng / Trái tốt hoa tươi

Hà Nội kinh thành tràn sĩ liệt / Sài Côn đô thị rạng anh tài

Phú Xuân bừng chói gươm ưu quốc / Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay

Việt nam nước của tôi / Già cũng như trẻ

Gái cũng như trai / Chết thì chịu chết

Chẳng cúi lòn ai / Tham lam ai muốn vô xâm chiếm

Thì giặc vào đây chết ở đây

Dù ai cắt đãt chia hai / Cho trong than thở cho ngoài thở than

Dù ai banh ruột xé gan / Cho tim xa óc cho nàng xa tôi

Thì anh cứ nhớ một lời / Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ

Anh về nước Pháp xa xôi / Chắc anh bao giờ quên được

Những là đường đi nước bước / Những là tên tuổi Việt nam

Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực / Đất Thái Nguyên câm tức nổi vồng

Tháp mười hận nước mênh mông / U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi

Bao giờ tôi chẳng nhớ / Nước Pháp rộng bao la

Cốt-Da-duya người thanh và cảnh lich / Bờ Mạc-xây xinh đẹp nhất sơn hà

Khí sông núi đúc nhiều trang tuấn kiệt / Bậc anh hùng cứu quốc Rốp, Gian-đa

Tôi nhớ mãi một ngày năm tám chin / Anh vùng lên phá ngục Bát-ti nhà

Anh giải thoát cho giống nòi đươc sống / Được yên vui trong đệ tứ cộng hoà

Anh vui anh sướng anh hát anh ca/ Tôi là người ở phương xa

Ngày anh xán lạn cũng hoà niềm vui

Thôi, / Đã đến giờ chia tay cách biệt / Anh rời nước Việt vừa tủi vừa mừng

Bên nhà vợ đợi con trông / Vắng anh tình mặn nghĩa nồng cũng phai

Tàu xúp lê một, tàu xúp lê hai / Bắt tay anh nhé anh về nước

Biển lặn trời êm nhớ lấy ngày / Và chẳng bao giờ quên chiến đấu

Cho ai đừng dến doạ đày ai

Bóng ngã trời tây, gió lồng biển cả / Phút giây từ giả

Trang sử trăm năm / Tàu anh rời bến Việt nam

Hãy xuôi một ngả một đường mà đi / Xin tàu đừng ghé bắc Phi

Sóng to gió lớn chắc gì đến nơi / Đừng oan trái nữa tàu ơi

Hảy xuôi về nước cho người hát ca / Anh về mạnh giỏi ô-voa".



3. Chiến tranh 1957-1975:

Đảng cộng-sản Việt-Nam giành độc quyền từ những thành phần yêu nước không cộng-sản, giành giơ cao ngọn cờ "yêu nước" vì mưu lược kế hoạch lâu dài và tuân theo chủ nghĩa quốc tế. Miền Bắc cộng-sản muốn xích hóa cả nước Việt-Nam, do đó đã ý đồ chiếm miền Nam bằng võ lực, ngay từ khi tiếng súng tạm ngưng với hiệp định Genève tháng 10-1954. Đề tài cải cách ruộng đất sôi nổi ngay từ 1953-1954, những năm cuối cuộc kháng chiến, nay rầm rộ lớn rộng, lên tiếng tố cáo, đấu tố và đấu tranh giai cấp. Trong những năm 1955-64, nhà văn miền Bắc viết lại kinh-nghiệm kháng-chiến chống Pháp và tỏ lòng thương miền Nam đưa đến mảng văn-học động viên đấu tranh song song với các chiến dịch Đồng Khởi và MTGPMN; nhưng cũng là thời của những vết thương Trăm Hoa Đua Nở, Nhân Văn giai phẩm!

Sự thành lập MTGPMN năm 1960 là sản phẩm của Hà Nội, nhưng sự tham gia nhiệt tình của một số người Nam theo thiển ý cũng là sự nối dài tinh thần đạo lý bình dân. Lịch sử là chuyện của lịch sử tập thể, nhưng ở đây chúng tôi nêu lên như một cắt nghĩa! Người miền Nam mở lòng yêu nước ra và người Cộng sản đã lợi dụng, hay có thể nói thêm rằng mọi người đều nghĩ lợi dụng thời cơ, tổ chức để thi thố, thực hiện lòng yêu nước, và trong mọi chiến thuật và tình huống, đã có người thua kẻ thắng, có kẻ lợi dụng có kẻ lòng ngay! Có thể nói người kháng-chiến miền Nam nếu có chung mừng "Cách-mạng Tháng Tám, Chiến Thắng Mùa Thu" nhưng có thể không ca mừng "chiến thắng Điện Biên Phủ" như người miền Bắc. Tết Mậu Thân 1968 là một thử nghiệm của guồng máy chiến-tranh miền Bắc, nhưng với người bên này vĩ tuyến 17, là một cơ hội để bạn thù có dịp phân minh, để những thành phần nằm vùng lộ mặt thật. Văn thơ phản chiến đã nở rộ ở các đô thị miền Nam, một phần phản chiến tự giác, phần kia nằm vùng và Cộng sản.

Thời chiến-tranh xâm chiếm miền Nam, là văn nghệ hiện thực phản ánh, xây dựng những hình tượng và tình cảm chống Mỹ, nguỵ. Văn học minh họa, các tác phẩm giống nhau, lẩn quẩn hiện thực, mỗi công trình là như một hòn đá xây chung bức tường cách-mạng một màu một kiểu:

"Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ

Hơn nghìn trang giấy luận văn chương" (Tiễn Bạn, Tố Hữu)

Tác-phẩm nào ra ngoài quỹ đạo chính thức sẽ bị phê (và đến nguy hiểm cho nhà văn) là "lệch lạc", là "hoang mang, hoài nghi, giao động" về cái gọi là "chiến thắng tất yếu của cách-mạng": từ các nhóm Nhân Văn Giai phẩm đến xét lại, v.v. Con chữ và lời, ý yêu nước dễ mang vạ vào thân!

Những nhà văn lớn ở tận trung ương đã phải tham dự việc hiện thực phản ánh, xây dựng những hình tượng và tình cảm chống Mỹ, 'nguỵ'. Tố Hữu (Miền Nam, Máu Và Hoa, Nước Non Ngàn Dặm, Theo chân Bác, Xuân 68, v.v.), Xuân Diệu (Tôi giàu đôi mắt), Chế Lan Viên (Những bài thơ giết giặc, Những Ngày Nổi Giận, Nhớ lấy để trả thù, Chim báo bão, ...), Huy Cận (Chiến-trường gần đến chiến-trường xa), Thâm Tâm (Căm thù, Đầu Quân, Lá Cờ Máu), Trần Huyền Trân (Soi Đường), Nguyễn Huy Tưởng (Bắc Sơn), v.v., nói chung không mấy giá trị văn-chương (của thời trước đó) vì mục đích trước mặt và nhu cầu cấp thiết. Tố Hữu ngồi ở Bắc bộ phủ gửi thơ vào "miền Nam trong lửa đạn, sáng ngời. Hà-nội, ngày 11-12-1963" như ghi ở cuối bài trong tập thơ Miền Nam được Ban tuyên truyền thành Đà-Nẵng in năm 1967 và người lính cộng hòa đã có thể tịch thu được trên xác người bộ đội sinh Bắc tử Nam, như tập Nhật ký của Đặng Thùy Trâm:

"... Ôi Tổ-quốc giang sơn hùng vĩ / Đất anh hùng của thế kỷ hai mưới!

Hãy kiêu hãnh: trên tuyến đàu chống Mỹ / Có miền Nam : anh dũng tuyệt vời"

Nhà thơ tay làm thơ tay cầm súng lục:

"Ai tạc chúng ta lúc này xin hãy tạc lời căm / Có những căm thù là hạnh phúc

Mặt ta rạng rỡ hào quang, tay ta hồng hào sinh lực / Có gì đâu ta sắp được giết mày'

Hay: " ... Ta đánh Mỹ vậy thì ta tồn tại"

Chế Lan Viên triết lý về hận thù, hăng đến độ triệt để: "Dĩ vãng buồn thương mang lá cờ đen / Đến làm giặc giữa lòng ta, ta bắn chết... ". Đem cả tiền bối Nguyễn Du ra để chống Mỹ: "Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình / (...) Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều / Nhật Lệ sông dài thuyền mẹ lại qua / Câu thơ Nguyễn cũng góp phần đánh Mỹ ...". Thơ như vậy được đề cao là thơ chính luận, chi phối bởi cảm quan 'sử thi', nghĩa là trở thành tuyên truyền và thời sự! Yêu nước (được đổi thành Tổ quốc) bây giờ trở thành yêu xã hội chủ nghĩa!

Trẻ cũng được khuyến khích làm thơ chống Mỹ, với những cuộc thi thơ. Lâm Thị Mỹ Dạ :

"Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em / Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ

Đất nước mình nhân hậu / Có nước trời xoa dịu vết thương đau

(...) Có phải thịt da em mềm mại trắng trong

Đã hóa thành những làn mây trắng? " (Khoảng trời hố bom)

Thời này xã hội cũng như văn nghệ được Đảng lãnh đạo chặt chẽ, văn học trở nên thống nhất, thành minh họa, không cá tính. Đường lối văn-nghệ cách-mạng qua các văn kiện của Đảng: văn-nghệ có nhiệm vụ chủ yếu động viên nhân dân đánh đuổi thực dân bảo vệ tổ-quốc; phương-pháp sáng tác hiện thực xã-hội chủ nghĩa, phản ánh cuộc song hiện thực như là đúng hướng đi của lịch-sử . Về nghệ-thuật phải điển hình hóa cao độ. Văn-học chiến-tranh phục vụ nhiệm vụ chính-trị của từng giai đoạn cách-mạng, mỗi thời theo những định hướng của tư tưởng chính trị có tính cách chiến lược của giai đoạn, từ chủ đề, nội dung và cả phương pháp sáng tác! Để đạt được mục đích thống nhất đất nước, thời 1957-1975, tiền tuyến nay ở trong Nam và phải thắng cho được 'giặc Mỹ'! Vì thế một bộ phận Đảng vào Nam, mà các văn nghệ sĩ cũng phải vào Nam đi 'thực tế' để có thể hoàn thánh sứ mạng mới. Các 'tác phẩm' làm ra trong cuộc chiến chưa đủ, sau 'hoà bình thống nhất', các nhà văn thơ vẫn phải tiếp tục 'nền' văn học cách-mạng chống Mỹ, vì 'giá trị của văn-học chống Mỹ trước hết là giá trị lịch-sử của nó' [15].

Văn truyện được tung ra, những Nguyễn Thi (Từ tuyến đầu tổ-quốc, Người mẹ cầm súng, ..) , Hồ Phương (Kan Lịch), Phan Tứ, Nguyễn Sáng, Nguyễn Trung Thành (Rừng Xà-nu, Đất nước đứng lên, ), Trần Hiếu Minh, Trần Đình Vân (Sống như anh), Anh Đức (Hòn Đất), Nguyễn Đình Thi (Vào Lửa), Chế Lan Viên (Những Ngày Nổi Giận), Nguyễn Minh Châu (Dãu Chân Người Lính, Cửa Sông), ... Nhân vật Lữ của Nguyễn Minh Châu trong Dấu Chân Người Lính được xây dựng trên nền tảng anh hùng ca và là một người lính quá lý tưởng. Con tim yêu nước sang ngời nhưng người đọc không một lần biết được con tim tình cảm của anh hùng Lữ! Nhà văn Nguyên Ngọc dưới bút hiệu Nguyễn Trung Thành từ Bắc vào Nam tham gia cuộc chiến chống Mỷ và đã viết nhiều truyện và tiểu-thuyết; các nhân vật của ông "đều đã cầm súng chiến đấu từ một lòng căm thù, từ ý chí tiêu diệt giặc để bảo vệ cuộc sống và hạnh phúc" - không biết những tấm lòng và ý chí đó thật sự ra sao, hay chỉ là mỹ từ? Hăng quá rơi vào cường điệu cương: nhân vật Chị Út trong Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi có những câu bất hủ như "Còn lại cái quần cũng đánh! (...) Đánh giặc sướng bằng tiên chớ cực gì!". Hai nhân vật chính của Mẫn Và Tôi (1972) của Phan Tứ là Mẫn và Thiêm theo sách giáo trình của Nguyễn Bá Thành và Bùi Việt Thắng là "hai ngôi sao sáng trên nền trời đầy sao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng toàn dân" [16]. Chỉ là những sử thi của những nhân vật tiền chế, không dấu vết con người thật, có suy nghĩ và tình cảm, cùng lẽ phải, con người với bi hài kịch cuộc đời!!



4. Thơ văn yêu nước miền tự do từ sau đình-chiến tháng 7-1954 :

Sau năm 1954, ở trong Nam và nhất là Sài-gòn hết còn nóng lửa chiến tranh, nhưng cuộc chiến vẫn âm ỉ, thời lập thuyết đấu tranh ý thức hệ bắt đầu, những mặt trận văn-hóa, những Phạm Thái, Thiếu Sơn, Hồ Hữu Tường,... Thời thơ của những Hồ Hán Sơn, Đỗ Tấn, Phan Lạc Tuyên, Hà Huyền Chi, Hoàng Trúc Ly, v.v. xuất-hiện trên các báo và tạp-chí Đời Mới, Nhân Loại, Mùa Lúa Mới, Nghệ Thuật, v.v. Trong tập 40 Năm Văn Học Chiến Tranh (1997), chúng tôi đã ghi nhận tổng quan các sinh hoạt và khuynh hướng văn-học. Trong khuôn khổ đề tài yêu nước, chúng tôi nghĩ có thể thâu tóm trong 3 khuynh hướng văn-học: yêu nước chống Cộng; yêu nước/ kháng-chiến thành và thiên tả và nằm vùng.

Những năm đầu sau 1954, nói chung, các tác-giả viết để ôn quá khứ, rút kinh nghiệm và xây dựng một miền Nam tự do, dân chủ. Tác-phẩm của những Kỳ Văn Nguyên, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Triều Lượng Chế, Đỗ Thúc Vịnh, Trần Lê Nguyễn, Võ Phiến , v.v. lấy chất liệu từ cuộc đời dấn thân kháng-chiến của những thanh niên thời chiến. Có người sử-dụng văn-chương cho chính-trị, lập thuyết, đao to búa lớn nhưng phần lớn làm văn-chương bình thường. Phan Lạc Tuyên qua bài Tình Quê-Hương:

"Anh về qua xóm nhỏ / Em chờ dưới bóng dừa

Ánh chiều lên mái tóc / Tình quê-hương đơn sơ

(...) Em hẹn em sẽ kể / Tình quê-hương đơn sơ

Mẹ già như chiều nắng / Nhớ con trai chưa về

Ruộng nghèo không đủ thóc / Vườn nghèo nong tầm thưa

Ngõ buồn mầu hoang loan / Quê nghèo thêm xác sơ... " (Mùa Hoa Mới, 1956)

Một Hoàng Trúc Ly nhẹ nhàng:

"Có người anh không quen / đến tôi nhà im cửa ngõ

Trời mưa phiêu bạt hoa đèn / Tâm sự nửa chiều cởi mở

Anh kể bài thơ / Ngổn ngang năm tháng

Thu xưa biền biệt áo tím kinh kỳ / Nắng không đè nổi vai người bước đi

đồng núi mênh mang / Dép mòn lá rụng / Xóm làng từ buổi thắm loang

Tàn phá đỏ loe đầu súng / Biết còn gì nữa ... người anh

Những mái nhà cay đắng chiến-tranh / Ruộng vườn ai lạnh lẽo cho đành

Từng vành khăn trắng như mây trắng / Xuân đến tha hồ thương tóc xanh

Đại dương lửa khói mờ nhân ảnh / Sực tỉnh nao nao khúc độc hành

Lạ lùng anh đến thăm tôi / Dừng chân mưa bay nhạt lối

Bóng chiều nghiêng xuống cuộc đời / Anh mỉm cười nghe đêm tối

Ngày ủng hoa sau lửa mắt khơi vơi". (Gặp Người Em, 1956)

Một Quách Thoại yêu dân chủ tự do :

"Chiều chiến-tranh / Những mẹ già run sợ

Và tiếng sung cối xay / Đêm sắp tối rồi

Người ta đang giết nhau quá mê say

(...) Ngoài kia vùng Bắc Việt / Nơi kẻ thù tôi

Và đồøng bào tôi / Đang giết nhau

Hỡi ôi / Đất nước chia đôi

Nam Bắc hai đầu / Nhìn nhau mà ruột đứt ..." (Những Buổi Chiều Việt-Nam).

**

Trong một khảo cứu về nhà văn Bình Nguyên Lộc viết năm 1996 [17], chúng tôi đã trình bày qua rằng Bình Nguyên Lộc bỏ bưng về thành, làm "kháng chiến thành". Ông xem văn chương là lương tri của thời đại, do đó ông đã kiên trì trong đường hướng này. Bình Nguyên Lộc yêu nước từ căn bản tình yêu đất, yêu làng quê nơi chôn nhau cắt rún (Tình Đất 1966, Cuống Rún Chưa Lìa 1969,...). Trong tác phẩm, Bình Nguyên Lộc rõ là có chủ trương đề cao và gìn giữ cội nguồn dân tộc, đề cao tình-yêu quê hương, đất nước, thiết tha với lịch sử dân tộc - thiết tha đến độ khảo cứu tận nguồn gốc dân-tộc với bộ Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt-Nam (1971). Tác-phẩm của ông mặt khác chứng minh thêm tính lạc quan, cũng là đặc tính làm nền cho tuần báo Vui Sống do ông chủ trương năm 1959. Báo Vui Sống (số 1 ra ngày 9-9-1959) là nơi quần hội những cây viết thường xuyên là: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Diên Quỳnh, Nguyễn Ang Ca, Tô Kiều Ngân, Trang Thế Hy, Thiên Giang, Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Nguyễn Đạt Thịnh, Hà Liên Tử, Minh Phẩm (TTH), Minh Đức, Trần Lê Nguyễn, Từ Trẩm Lệ, Tường Linh, Khổng Nghi, Thanh Nghị, Lê Thương, Viễn Châu, ... Trong số có người từng đi kháng-chiến hoặc nằm vùng sau đình chiến 1954. Đặt biệt báo nhấn mạnh có sự cộng tác của 20 cây viết nữ: 'Cô Thu Trang, cô Linh Bảo, cô Minh Đức, cô Hương Trang. cô Linh Hà, cô Vinh Lan, cô Trúc Liên, cô Kiều Mỹ Thôn, cô Thạch Hà, cô Hợp Phố, bà Mộng Liên,.... '. Hợp Phố, Linh Bảo lúc đó đã nổi tiếng. Minh Đức văn trên báo hiền lành, trái hẳn với Minh Đức Hoài Trinh của Sám Hối, ... hoặc của Chiếm Lại Quê Hương, Bài Thơ Cho Quê Hương, Bên Ni Bên Tê sau này. Nhà văn Vinh Lan của Vui Sống mới đây xuất-bản tập truyện và ký Nỗi Sợ Và Niềm Hy Vọng (2006).

Lý tưởng của Vui Sống được in chữ đậm trong một cột nhỏ: "Tôi được Thượng đế mời dự đại hội liên hoan nơi thế gian nầy" Tagore Thi hào Ấn Độ (trích tập thơ Offrandes lyriques). Nhưng, xin chớ hiểu lầm! Vui Sống không có nghĩa là cười đùa hay buông trôi để tận hưởng cuộc đời. Và hội liên hoan không phải là những cuộc truy hoan. Vui Sống (la joie de vivre) là hòa mình với cuộc sống, để lấy thăng bằng hầu đủ can đảm mà làm việc. Trác táng không phải là Vui Sống, và kề gái đẹp, nếm rượu ngon, chỉ là nước bí của những kẻ mất thăng bằng. Vui Sống bắt nguồn nơi thanh thản của tâm hồn, mặc dầu ta bận rộn trí óc và nhọc nhằn xác thịt". Người đọc biết chủ trương, đường lối, quan điểm của Vui Sống qua các bài mở đầu mỗi số, như trong Vui Sống số 1 với tựa đề "Ngả ba số mạng : Cộp... Cộp... Cộp...- Lý tưởng đi vắng!":

"Trên đường lịch-sử, cứ vài mươi năm một, thì một dân-tộc tiến đến một ngả ba của số mạng của họ.

Đó là một khúc quanh lịch sử vô cùng nguy hiểm mà họ bắt buộc phải chọn nẻo, không thể trốn tránh được. Chọn đúng đường, họ sẽ đến nơi xán lạn, chọn lầm, họ sẽ rơi vào vực thẩm.

Mà một thế hệ hoang mang, không thế nào chọn đúng con đường được. Họ Phải Biết Cái Gì Họ Muốn, tức là họ phải có lý tưởng.

Năm 1945, ta đã đứng trước một ngả ba như thế. Ta đã chọn đúng con đường, là đem xương máu giành độc-lập, vì trong thời tiền-chiến, ta có lý tưởng rõ rệt, đó là ý-chí tự quyết-định số phận của mình.

Từ khi độc-lập được thu hồi, kẻ già an-phận vì kiệt lực, hoặc vì thích ngủ trên vòng hoa tráng lệ của thành công, còn thế-hệ mới thì ngơ-ngác không biết mình phải làm gì, trong khi còn không biết bao nhiêu công việc phải làm.

Cuộc phỏng vấn của Vui Sống, mà kết quả đăng bên trang 5, là bằng chứng hùng-biện của sự bỡ ngỡ của thanh niên hậu chiến.

Không lý-tưởng là nguồn gốc của bao nhiêu là cuộc đời thừa, có cũng như không, là nguồn gốc của bao nhiêu cuộc đời hư-hỏng, mà người ta không xét kỹ, cứ đổ lỗi cho nhiều nguyên nhơn khác.

Hồi tiền chiến, không nước nào có nhiều trà thất bằng nước Nhựt. Thế mà không thanh niên nước nào hăng hái với nhiệm vụ cho bắng thanh niên Nhựt của thời đó.

Hồi tiền chiến, số vũ trường ở V. N. không kém số vũ trường bây giờ. Thế mà lúc khởi nghĩa, thanh niên ta đã đứng lên đáp lời sông núi, trong sô chiến-sĩ ấy, có rất nhiều thanh niên đã đi nhảy.

Hồi tiền chiến, phim cao bồi vẫn chiếu ở đây. Thế mà thanh-niên ta thuở ấy không cao bồi.

Là vì thế hệ tuổi trẻ tiền chiến của ta có một chỗ nhắm để mà hướng tất cả tâm chí và hành động của họ về cái đích ấy: độc lập.

Trà thất, vũ-trường, hộp đêm, hay gì gì nữa, không là nguyên-nhơn chánh của sự buông trôi để hưởng-thụ. Những ánh đèn mê hoặc ấy không làm sao rù quến những con thiêu thân được, nếu những con thiêu thân kia có hào quang khác, rực rỡ hơn để mà say mê.

Khi thanh niên được hào quang lý tưởng chìếm lòng họ thì vũ nữ hay tiên nga đi nữa cũng chỉ là trò đùa giây lát, mà họ quên ngay sau vài giờ.

Nếu ta cứ lười nghĩ, dễ dãi tìm những nguyên-nhơn dễ-dàng và gạt-gẩm như thế thì không bao giờ ta trừ được căn bịnh đồi trụy cả.

Chánh thủ-phạm là sự thiếu lý-tưởng, sự rỗng không nơi trí và hồn của con người.

Vui Sống ra đời chỉ có một sứ mạng độc nhứt là gây cho thanh niên một lý tưởng. Khi họ có ngọn lửa thiêng ấy trong người họ rồi, thì xa hoa, trụy lạc khỏi phải trừ, cũng bị họ khinh thường.

Tham-vọng trên đây, Vui Sống cả quyết thực-hiện".

Dù một số biên khảo của trong nước có nhắc danh tính và tác-phẩm của Bình Nguyên Lộc nhưng đến nay chưa có thể kết luận rằng Bình Nguyên Lộc thuộc thành phần nằm vùng như Vũ Hạnh, Lý Văn Sâm, Sơn Nam, v.v. Nếu chỉ xét khía cạnh tư tưởng văn-nghệ dân-tộc qua các tác phẩm của ông cũng đã có thể liệt ông vào hàng ngũ yêu nước chân chất. Có thể với lý do đó mà trong nước đã vinh danh Bình Nguyên Lộc trong số các nhà văn "yêu nước tiến bộ cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn 1954-1975" [18].

Văn-chương của những người lính cộng hòa theo nồng độ của chiến-tranh mà leo thang lên những góc độ hãi hùng, hiểm nghèo, từ cảnh tượng chiến trường đến tâm cảm, suy tư. Những Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư, Y Uyên, Nhã Ca, Nguyên Vũ, v.v. đưa chiến-tranh đến gần với người đọc. Khác với bộ đội miền Bắc, người chiến sĩ cộng hòa có thể viết về chiến-tranh một cách đa diện - dĩ nhiên nếu rơi vào phản chiến hay chống đối chế độ, sẽ bị kiểm duyệt cắt đục. Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ về, đã nhắn nhủ người yêu dấu:

"Còn ba năm nữa anh sẽ về / anh biết chắc không còn quê hương để ở

em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu / làm bằng nắp hòm người lính nghèo

chết ngoài mặt trận / anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe

mà không xin tiền / chỉ tìm lại ngững đôi mắt trân tráo

những bước chân đi qua vỉa hè / với nụ cười mà nhiều năm anh đã mất" [19].

Từ cuối năm 1963 là thời của đảo chánh, biểu dương lực lượng, người Mỹ đồng minh can thiệp công khai vào nội tình chính quyền miền Nam. ... Trong hoàn cảnh đó đã xuất hiện một số người thiên tả, phản chiến hay thiên cộng. Có người tự xưng là cấp tiến, lương tâm thời đại hay ý thức hệ dân quyền không cộng-sản! Phát sinh những nhóm Hành Trình, Thái Độ, Đối Diện, ... với báo chí, văn-chương xám (in roneo, phát hành bán chính thức, v.v.). Có người tự nhận là "thành phần thứ ba", có người thân cộng hay trở thành cộng sản. Họ là những trí thức ở thành thị, là sinh viên, giáo sư, nhà văn, nhà báo, tu sĩ. Thái độ của họ có khi chỉ là một thái độ tinh thần, chính trị hay luân lý nhưng có người dấn thân tranh đấu. Có người cho họ là can đảm nhưng hoạt động của họ bất lợi cho các chính quyền miền Nam và vô tình hay cố ý hỗ trợ hữu hiệu cho Mặt trận Giải phóng và cộng sản Bắc Việt. Có người ngây thơ hay không hiểu thấu đáo về cộng sản Bắc Việt hay Mặt trận Giải phóng, có người hoạt động có tính cách lãng mạn cách mạng. Bên cạnh họ có những nhà văn dấn thân tích cực, có thể nói đến Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Trần Hoài Thư, Thảo Trường, v.v. Nhân vật Lực của Thảo Trường đi lính cộng-hòa, phải theo chiến-tranh bom đạn và sống giữa những xác chết, của kẻ thù vă cả của đồng đội! "Cuộc chiến-tranh bây giờ là một cuộc giằng co khổ cực và giai dẳng. Giải đất quê-hương không còn là những hình ảnh êm đềm. Quê-hương đã bị dầy xéo, đã bị ung nhọt..." (Chạy Trốn, tr.37). Quê-hương đích thực không còn, trở nên xa lạ vì đã bị những kẻ cướp nhân danh đủ thứ chân lý. Mỗi con người là một hoang đảo, một kẻ khác, không ai cứu được ai. Tin được ai? Qua các nhân vật của Thảo Trường người đọc nhìn thấy đó là một đối kháng liên tục, những tra vấn không ngừng của con người trí thức, "cấp tiến", trong một xã-hội, đất nước đang lâm chiến và kéo dài, một cuộc chiến-tranh huynh đệ trong khung cảnh tranh chấp ý thức hệ của cái gọi là "chiến-tranh lạnh" của tương tranh quốc tế về sau biến dạng thành tranh hùng quốc-cộng nay vẫn còn tiếp tục.

Văn-chương gọi là "phản chiến", một mảng nhưng đa-loại chứ không đồng nhất, như chúng tôi đã phân tích khi viết về nhà văn Thảo Trường. "Thảo Trường thật sự đánh dấu một dứt khoát của dấn-thân và của một ý-thức muốn khác dòng tâm-thức đang thịnh-hành. Thật vậy, cùng với những trí thức, giáo sư đại học, trung học và nhà văn "cấp tiến" khác (Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Đức, Lý Chánh Trung, Thế Nguyên, các LM Thanh Lãng, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, ...), và khác với một dòng vận động trí thức khác, mạo danh "dân tộc", của những kẻ nằm vùng (Lữ Phương, Vũ Hạnh, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, . ..), Thảo Trường đã, qua các sáng tác văn-chương, vạch một ranh giới giữa vô thức và ý thức tích cực, giữa một dấn thân dù chân trời chưa rõ nét và một buông tay, chịu trận số-phận.

Trong cuộc chiến vừa qua, sống ở bên này hay bên kia thì người dân vẫn đã không có tự do lựa chọn. Nhưng có thể có thái đô. dấn thân khi đã chấp nhận định mệnh (chiến-tranh như một định mệnh), một chấp nhận rất hiện sinh mà cũng trung-thực không kém. Phản kháng trong khuôn định mệnh, tác-phẩm lấy bối cảnh cuộc chiến nóng bỏng đang diễn ra, đang tàn phá; nhưng Thảo Trường và một số nhà văn như Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Hoài Thư, v.v. đã bị chụp mũ làm nhụt lòng chiến sĩ hoặc làm mất miền Nam, trong khi họ cầm súng bảo vệ miền Nam. Dĩ nhiên, họ là người dứt khoát của bên này chiến tuyến chứ không phải nằm vùng hoặc là người của bên kia - như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, v.v. là những người viết theo nghị quyết hoặc chỉ thị, làm công-cụ cho Mặt Trận Giải Phóng tức là Hà-nội! Như vậy, không thể xếp những nhà văn mặc áo lính nói trên vào số văn nghệ sĩ phản chiến được. Không thể tổng quát hóa cho rằng họ đã tiêu cực phản chiến làm mất miền Nam. Phản chiến đúng ra là một nhãn hiệu chỉ có thể áp dụng cho những nhóm thanh niên hoặc trí thức ở Hoa-kỳ hoặc Âu châu chống chiến-tranh Việt Nam; trong khi đó, các nhà văn trên đã nhập cuộc. Nói rằng họ nói lên cái ý chí phản kháng thì đúng hơn. Dấn thân, nhập cuộc là hình-thức hiện hữu trọn vẹn nhất của nhà văn qua tác-phẩm! Thật vậy, chân lý sẽ được tỏ ngời khi nó đã được nắm bắt hiệu lực qua các tố cáo, nhắc nhở, tra vấn, ... tức là qua phản-kháng! Dấn thân không chỉ trực diện, mà còn có thể đi đường vòng hoặc dùng các phương-tiện khác; vì phản kháng có những điều kiện và hậu quả cay đắng như tác-phẩm bị kiểm duyệt hoặc tịch thu và bị ra tòa - thường là tòa án quân sự. Thái độ dấn thân, phản kháng này được Thảo Trường đề cập nhiều lần, như trong Chạy Trốn, những thanh niên ở phía quốc-gia thì đi lính và chiến đấu nhưng khi đường cùng, thì quyết định không ... chạy trốn. Họ nhận ra chân lý rằng sự có mặt cũng đã là chiến đấu rồi. "Chiến đấu không cứ phải là bắn giết. Có thái-đô. cũng là chiến đấu" (tr. 58)."

Ngoài ra, có thể cùng chủ đích nhưng với mỹ-học khác với Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Hiến Lê, v.v. các tác-phẩm của Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Thế Uyên, v.v. ẩn chứa tiềm tàng những cổ-xúy đạo-đức, những điểm nhắm chính-trị vừa con người cá-thể vừa con người tập-quần, và cả một chủ trương ngầm về văn-chương là gì, cho ai và để làm gì! Văn-chương ở đây là của dấn thân, của tra-vấn không ngừng, không nhân danh chủ nghĩa, ý thức hệ, nhưng nhân danh con người, nhân danh lương trí, ý thức, ... Như vậy, Thảo Trường và Phan Nhật Nam làm nhà văn dấn thân tham dự chiến-tranh, Thế Uyên dấn thân chính-trị làm cách-mạng xã-hội, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh, Nguyên Vũ, Hồ Minh Dũng, v.v. nhân danh con người và nạn nhân chiến tranh để phản đối chiến tranh còn những Vũ Hạnh, Thế Vũ, Thế Nguyên, Trịnh Công Sơn, Trần Hữu Lục, Ngụy Ngữ, ... đã phản chiến theo chỉ thị của guồng máy chiến-tranh trong đó một số đã bị lừa phỉnh!" [20].

Bút nhóm Việt ở Huế với Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Đông Trình, Bửu Chỉ, Võ Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành... Trước 1975, họ viết theo chỉ thị, mệnh lệnh để tố cáo chế độ, xuyên tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện, Bách Khoa, v.v. Là một nhóm trẻ theo Cộng "đánh Mỹ" và công khai chống chế độ cộng hòa miền Nam, được chế độ cộng-sản đánh bóng gọi họ là những "thanh niên trí thức đô thị miền Nam". Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết, ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, 'chuồng cọp', v.v.) để tổng quát hóa làm lớn chuyện tuyên truyền. 'Chuồng cọp' của trại tù miền Nam - do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh được với nhà tù Hỏa Lò ở Hà-nội và những trại tù 'cải tạo' trên khắp nước Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có thống kê thì những tù nhân của 'chuồng cọp' có mấy người đã chết vì tù hay gần như tất cả đều trở ra sau 1975 và làm chức lớn cả? Còn thống kê về những kẻ sống ở miền Nam bị đòn tù 'cải tạo' thì sao, bao nhiêu chết trong trại tù và bao nhiêu được thả về để chết ở nhà hoặc lê lết bệnh tật chết mòn? Sau 1975, nhiều người được chế độ thưởng công cho giữ những chức vụ trưởng, phó đầu ngành như Võ Quê, Trường Sơn, Lê Gành, Lê Văn Ngăn, Trần Hồng Quang, Tiêu Dao Bảo Cự, làm hội viên các Hội Nhà văn Việt Nam như: Võ Quê, Trần Hữu Lục, Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Tần Hoài Dạ Vũ, Hội Nghệ thuật tạo hình Việt nam : Bửu Chỉ., Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nguyễn Phú Yên...).

Nhóm Ý Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập những cây viết Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh, Mang Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, v.v. Cũng phản đối chiến-tranh nhưng nhóm Ý Thức của những người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra phẩn nộ với lương tâm và ý thức công dân khác nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách điều khiển chiến-tranh phi lý, phí phạm, tả những cảnh cực hình lao công chiến trường (Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh tòa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, trình diện trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v. Các cây viết thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng đồng thời họ đang cầm súng chống cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có mặt của họ cùng với các nhà văn khác như Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái Độ của Thế Uyên, Hành Trình của Nguyễn Văn Trung, Trình Bày của Thế Nguyên, Diễm Châu, Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu sĩ Công giáo, v.v. chứng tỏ miền Nam đã trưỡng thành về chính trị, chấp nhận đối lập và tiêu cực dù trong tình cảnh chiến tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân đạo) đã bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp đã tỏ ra yếu kém (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián điệp, v.v.). So với nhóm Việt, nhóm Ý Thức nhiều người cầm súng, để bảo vệ miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác họ phải bảo vệ đất nước của họ, dù họ biết cấp trên có người không tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư "Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa thịnh đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (...) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ..."(Nhật Ký Hành Quân). Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dẽ dãi cho mọi hành động: "Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm , khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. đừng bận tâm và thắc mắc. đừng tự ái và ghê tởm. (...) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh..."[21]. Người lính của Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến!

Sau 1975, Trần Vàng Sao đã viết Tôi Bị Bắt, Tiêu Dao Bảo Cự viết Nửa Đời Nhìn Lại rồi Tôi Bày Tỏ như một tự kiểm, Lý Quí Chung biên hồi ký Hồi Ký Không Tên (2005), không tên như thất vọng, bị dùng, không thể nói trắng ra và không lương thiện tự trách mình (tiên trách kỷ hậu trách nhân!). Thế Nguyên (tác-giả Cho Một Ngày Mai Mơ Ước, 1972) thì đã chết trong thất vọng, còn những Nguyễn Trọng Văn, Lý Chánh Trung còn đâu tiếng nói của lương tri? (Hơn nữa những gì các vị này phê phán miền cộng-hòa như đĩ điếm, nghèo đói, bất công hay sách báo, thời trang, Pepsi Cola của Mỹ thì nay đầy rẫy mà còn tệ hơn trước 1975!). Và những Thái Lãng (Nhật Ký Của Người Chứng, 1966, NXB Thời Mới của Võ Phiến), Thái Luân (Vùng Tủi Nhục, 1965) từ chống Cộng chuyển sang phản chiến chống Mỹ, họ nghĩ gì? Xin nhắc lại đây Trần Vàng Sao thời "bốn ngàn năm nằm gai nếm mật":

"Tôi bước đi / Mưa mỗi lúc mỗi to,

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước / Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may / Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con / đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha / Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra / Mỗi đêm cầu trời khấn Phật, tai qua nạn khỏi

Tôi yêu đất nước này áo rách / Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở / Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế "(Bài thơ của một người yêu nước mình, 1967)

***

Về các nhà văn nhà báo và trí thức năm vùng, cộng-sản hoặc yêu nước ở miền Nam sau hiệp định Genève 20-7-1954, thiển nghĩ hãy để lịch-sử sau này xét đoán vinh danh hay luận tội, hiện hãy còn khá gần để có thể có cái nhìn và kết đoán khách quan, trung thực; những Thiếu Sơn, Lưu Nghi, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Thẩm Thệ Hà, Ngọc Linh, Kiên Giang, Ái Lan, Kiêm Minh, ... Tuy nhiên đã có một số khá hiển nhiên như Vũ Hạnh, Sơn Nam, Lê Vĩnh Hòa, Nguyễn Bảo Hóa, Dương Tử Giang, Lý Văn Sâm, Thái Bạch, Lữ Phương, Vân Trang, ...

Xin nói qua vài tạp chí và tên tuổi cánh tả.

Nhân Loại với chủ trương 'phục vụ văn-chương lành mạnh' như ghi trên tiêu đề báo bộ cũ 1955 đến 1956. Bộ mới từ tháng 4-1956 đến 1958 thì đình bản. Tiếng nói của văn-học miền Nam lục-tỉnh tiếp nối dòng văn-học Hồ Biểu Chánh, đăng truyện Nguyễn Chánh Sắt, Phi Vân, v.v. Có mặt Dương Tử Giang, Hợp Phố, Ngọc Linh, Viễn Phương, Lý Văn Sâm, Lê Vĩnh Hòa, Văn Phụng Mỹ Trang Thế Hy, Tiêu Kim Thủy Tô Nguyệt Đình, Kiêm Minh, v.v. Từ đầu đến gần cuối, tờ Nhân Loại là cơ quan ngôn luận bị Việt cộng thao túng sử dụng. Cùng trường hợp có nhà xuất-bản Phù Sa của Ngọc Linh (từng xuất-bản sách của Ngọc Linh, Lê Vĩnh Hòa, Sơn Nam, v.v.), nhà xuất-bản Trùng Dương của Lưu Nghi và Lá Dâu do Thẩm Thệ Hà phụ trách.

Tạp chí Bách Khoa ra mắt tháng 1-1957, do Huỳnh văn Lang điều khiển và viết bài về kinh tế; Phạm ngọc Thảo viết về quân sự, chính trị, ... 1958 Lê Ngộ Châu điều hành khi ông Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, nhưng báo vẫn đứng tên Huỳnh văn Lang cho đến tháng 2-1965 dù sau đảo chánh 1-11-1963, ông Lang bị đảo chánh bắt vì tội ... Cần Lao. Bách Khoa vào những năm cuối trước tháng 4-1975 từng đổi ra Bách Khoa Thời Đại. Khi viết về văn-học miền Nam thời này, Võ Phiến nói đúng nhưng không đủ, có thể vì ông trong cuộc, khi cho rằng : " ... Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng. Không có chủ trương "văn nghệ cách mạng" cũng không chủ trương "vượt thời gian", nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương... Về mặt chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo..."[22]. Nguyên Sa nói đúng hơn! Huỳnh Văn Lang chủ nhiệm với tinh thần bình dân học vụ, văn-hóa cần lao nhân-vị, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Ngu Í... là người cựu kháng chiến, Võ Phiến từng ở Khu 5 kháng chiến, với bút hiệu Tràng Thiên và Thu Thủy (phê bình sách của Võ Phiến), những năm cuối trước 1975 là thời của Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Phạm Long Điền, ... Vũ Hạnh lèo lái những người làm văn-hóa 'dân tộc'. Lê Ngộ Châu cũng như Nguyễn Hiến Lê là những người cẩn mực, có văn-hóa và tin người, riêng Nguyễn Hiến Lê vì tự tin đã tẩy chay giới cầm quyền chính trị văn-hóa thời cộng-hòa và có cảm tình với những người cộng-sản dưới áo khoác bảo vệ văn-hóa dân-tộc kiểu Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Văn Giáp, ... cộng tác với Tin Văn ("Văn-chương và dân-tộc tính", số 10, 1966). Sau 1975 thì Nguyễn Hiến Lê đã thức tỉnh và chỉ nhẹ nhàng phê chế độ cộng-sản phớt qua trong Hồi Ký (vẫn bị kiểm duyệt ấn bản in trong nước). Bách Khoa còn là đất vẫy vùng của những nhà văn nằm vùng hoặc cảm tình viên Việt cộng như Vân Trang, Thiếu Sơn, Trần Thúc Linh, Hợp Phố, Đông Trình, ... Người cộng-sản cũng như quốc gia và yêu nước không tả không hữu đều đã dùng người khác làm bình phong để thao túng, như với Bách Khoa, hay với Sinh Lực, Mai (Hoàng Minh Tuynh), v.v. hoặc đã dùng những chủ trương lành mạnh hóa xã hội, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bình dân học vụ, hội Khổng học, ... Nhưng chúng tôi không đồng ý với nhận xét cho rằng những nhà văn trẻ của thời cuộc chiến và văn thơ ca nhạc chống chiến-tranh cao độ nhất như Trần Hoài Thư, Kinh Dương Vương, Hồ Minh Dũng, Ngô Thế Vinh, ... bị cộng-sản lèo lái đưa vô tròng. Dĩ nhiên những người khác hoặc có kẻ hở, ngây thơ, háo thắng hoặc mạng nhện tình lý đã bị dùng như con cờ; đó là những Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, Nguyễn Trọng Văn, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Trần Vàng Sao, ... bên văn thơ, và những Trịnh Công Sơn, Miên đức Thắng, Nguyễn đức Quang, Phạm Thế Mỹ, ... bên nhạc.

Do trung ương cục và đặc khu ủy Sài-Gòn-Gia Định do Trần Bạch Đằng chỉ đạo, tờ Tin Văn ngoài Nguyễn Nguyên (Nguyễn Ngọc Lương), Vũ Hạnh, Hoàng Hà, Vân Trang, Mặc Khải, Phương Đài, Thái Bạch, ... còn lôi kéo thêm Nguyễn Trọng Văn, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân, Phan Du, ... Dùng dân-tộc làm bình phong, do đó khi chiến lược cần, lại hô hào tự do: nhóm tung ra "Bản tuyên ngôn của văn-nghệ sĩ về tự do sáng tác, tự do biểu diễn, tự do xuất-bản" ngay trong số ra mắt (6-6-1966)!

Vũ Hạnh viết cho nhiều tờ báo dưới nhiều bút hiệu Nguyên Phủ, Minh Hữu, Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, hoạt động trong Văn Bút Việt-Nam, tổng thư ký Hội Bảo vệ văn-hóa dân-tộc, một tổ chức ngoại vi của Việt cộng, viết phê bình, điểm sách và lý luận, tranh luận văn-nghệ (Tìm Hiểu Văn Nghệ 1970, ...) trước sau một ý cưỡng ép văn-nghệ làm chính-trị một chiều, dùng cả biệt hiệu tác-giả A. Pazzi lẫn dịch giả Hồng Cúc (cùng tên với phụ trách tòa soạn Tin Văn) dịch cuốn Người Việt Cao Quí để lừa người đọc, cuối cùng bị bắt ở tòa báo Bách Khoa (7-1967) - nhưng được chế độ pháp quyền và nhân đạo miền Nam buông thả (cùng áp lực của LM Thanh Lãng chủ tịch Văn Bút tin người và "ngây thơ" về cộng-sản!).

Sơn Nam trong thời kháng-chiến hoạt động ở miền Tây và Khu 9 và từng được giải giải Cửu Long 1952 với hai truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung ký Phạm Minh Tài - cũng như khi cộng tác với báo Nhân Dân Miền Nam do đảng cộng-sản điều khiển, Trần Bạch Đằng phụ trách có đăng các truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung, Cây đàn miền Bắc, v.v. Hai truyện đầu chống thực dân và địa chủ tức đấu tranh giai cấp và 'dân-tộc'; truyện sau đề cao tình đồng chí Bắc Nam. Trong Tây Đầu Đỏ (khu kháng-chiến xuất-bản thành tập cùng tựa), vì mắc nợ trả chưa đủ mà bị 'tên' tây bắt con bò đang chửa mổ bụng lấy bào thai nhắm rượu để trừ nợ:

"- Trời ơi! Phen này mổ bụng con bò chửa của tôi để trừ nợ. Thiệt sao, thầy Tư?

- Ổng nói vậy đó. Không tin, lát nữa ông qua bứng cột nhà cho coi"[23].

Sau đình chiến 10-1954, theo nhà văn Xuân Tước [24], Sơn Nam dựa bóng Bình Nguyên Lộc và Vương Hồng Sển để nằm vùng ỡ Sài-Gòn, bị bắt tù hai lần, 1960 và 1974. Suốt thời cộng hòa, Sơn Nam viết nhiều về lịch sử, văn-hóa và một số tiểu thuyết xã hội thời cựu trào.

Nguyễn Bảo Hóa là nhà văn yêu nước "tiến bộ" thời đầu kháng-chiến Nam-bộ, về sau theo cộng-sản nằm vùng sinh hoạt báo chí và trở qua viết tiểu thuyết dã sử đăng nhật trình. Lê Vĩnh Hòa tác-giả nhiều truyện ngắn trên Nhân Loại, Bách Khoa, v.v. sau xuất bản tập Mái Nhà Thơ (1965) và Người Tị Nạn. Ông chết do bom dội trong bưng, còn Dương Tử Giang, thì vượt ngục Tân Hiệp bị bắn chết năm 1956.

Trang Thế Hy (còn ký Văn Phụng Mỹ, Minh Phẩm, Triều Phong, Vũ Ái, Phạm Võ,...) xuất-bản Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại (ký Văn Phụng Mỹ, 1963), làm thơ viết truyện ngắn và tiểu thuyết (đăng báo), có những tác-phẩm nổi tiếng như bài thơ Khoai Ngọt Bánh Đắng ký Minh Phẩm được Bình Nguyên Lộc đưa vào truyện Quán Bên Đường và Phạm Duy phổ nhạc, truyện ngắn Người bào chế thuốc giảm đau, ... Là cảm tình viên của Mặt Trận GPMN "chống Mỹ", sống ở Sài-Gòn, cộng tác với Nhân Loại, Vui Sống, Bách Khoa, v.v. bị bắt 1962 và sau đó vô bưng ở Củ Chi 1963, viết báo viết truyện đăng báo của Thành ủy Sài-Gòn ký dưới nhiều bút hiệu ông, truyện ngắn Anh Thơm râu rồng được giải văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ Giải Phóng miền Nam Việt Nam 1960-1965, truyện ở tù của một phu đạp xích-lô 'cảm tình viên Việt cộng' đặt truyền đơn bị công an Cộng hòa bắt giam, trong tù anh gặp nhiều người cùng hoàn cảnh hoặc nạn nhân của những đấu tranh giai cấp chống 'địa chủ'. Sau 1975, ông có thêm các tập truyện ngắn Mưa Ấm (1981), Người Yêu Và Mùa Thu (1981), Vết Thương Thứ 13 (1983), Nợ Nước Mắt (2002), tập truyện ngắn và hồi ức Tiếng Khóc Và Tiếng Hát (1993) và mới đây, tuyển tập Truyện Ngắn Trang Thế Hy (2006). Ông viết trên dưới 50 truyện ngắn, không nhiều như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Thời chiến tranh 1957-1975, ông viết theo chiều hướng đề cao người theo Mặt trận chống lại miền Nam cộng hòa, cũng như khuyến khích cầm súng và vô bưng. Trong Mưa Ấm, cô gái tên Thu 'cảm tình viên cộng-sản', thuộc một 'tổ chức mà em phải chấp hành mệnh lệnh' rủ người yêu ra vùng giải phóng nhưng chàng Diệp chỉ muốn làm 'một người chân chính cỡ nhỏ' tức 'tham gia đại cuộc nhưng không toàn tâm toàn lực'. Dù sao thì con người Trang Thế Hy, cũng như tác-phẩm, thẳng thắn, chống bất công và những chuyện bất bình, yêu sự thật, dù có bị lợi dụng, tâm hồn bộc lộ qua những lời lẽ tự nhiên như bài thơ Lời nói dối nhân ái, ... không quỵ luỵ quyền hành dù là với những người 'bạn' từng chung chiến đấu thời kháng-chiến (truyện Chất Liệu), và lúc nào cũng lòng nhân ái (truyện Thèm Thơ, Chuyện Người Chế Thuốc Giảm Đau, ...). Truyện Thèm Thơ kết thúc trong nuối tiếc:

"... Loan ơi! Chết đem theo sự thèm nghe thơ và sống mà thèm nghe thơ chưa biết ai khổ hơn ai. Bài thơ mà em thèm nghe và anh thèm làm cũng chẳng đẹp gì cho lắm. Để thèm nó có lẽ ít buồn hơn là thưởng thức nó với sự đau xót trong lòng. Sẽ có một ngày kia, khi một cô gái ôm một chàng trai trong giấc ngủ yên lành, thì hơi ấm của cô ta tạo ra không gợi đến một tứ thơ cay đắng như em nghĩ. Bài thơ về hơi ấm đó sẽ có người làm và làm hay hơn bây giờ.".

Lòng thương người nhuốm sự bất lực không làm được gì nhiều, như trong một truyện ngắn khác, Một Thiếu Nữ Không Đáng Kể, đăng trên Nhân Loại năm 1957! Hoặc như nhân vật nam trong Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại trong cơn lốc của chiến-tranh đã 'bán đứng' người con gái tên Thơm, cũng là bạn thời nhỏ, đẻ phải hối hận bên nấm mồ: "Em Thơm ơi! Có những kẻ muốn tàn phá hết, sát phạt hết không muốn chừa lại một chút gì tươi đẹp trên giải nước non này. Nhưng cái đẹp vẫn muôn đời tồn tại: biển cỏ đẹp, dòng kinh đẹp, màu nước đẹp, cô gái chèo ghe đẹp, tiếng hót con chim đẹp và tấm lòng bao dung tha thứ của người cha rộng lượng của em cũng đẹp đẽ vô cùng. Đến như cái tâm tư đen tối của anh mà cũng chói lên được vài tia sáng đẹp dưới ánh nắng miền quê ngoại. Anh không đổ thừa chiến-tranh để mong em tha thứ như người cha thân mến của em đã vịn vào đó mà xá tội cho anh. (...) Anh chỉ muốn hứa với em rằng tâm tư u tối của anh từ đây sẽ trong sáng lần lần nhờ sự soi rọi của nắng đẹp miền quê ngoại" [25].

Trang Thế Hy cũng như một số những người miền Nam (và cả nước) thiên tả vì lý tưởng yêu nước và nhân đạo, viết cho một sứ mạng xã hội, ông đứng về phía những người bị đàn áp, những nạn nhân của địa chủ, guồng máy chính trị và thực dân, cả guồng máy và con người cộng-sản sau 1975.

Văn thơ của những người yêu nước vì yêu nước, chân thành yêu nước, chân thành kháng-chiến, chống mọi bạo quyền bạo lực; văn thơ của những người này tự nó có giá trị đánh thức, tố cáo và phục vụ tình tự dân tộc. Lòng yêu nước xuất phát từ chế độ thực dân thành ý thức và hành cử kháng-chiến, như đã nói, người yêu nước miền Nam tự nguyện hoặc bị chiến thuật chiêu hiền hoặc tâm lý chiến mà sát nhập hoặc đi dưới trướng của Mặt trận GPMN; những người khác thành đối lập hay lực lượng chính trị sinh hoạt một cách dân chủ (Liên trường, Đại Việt miền Nam, 'Hoa Sen', Trần Văn Hương, Dương Văn Minh, v.v.), những thế đứng khác nhau, thành-bại, hay-dở đã là những kinh nghiệm! Cái nhãn có thể không quan trọng, nhưng lòng yêu nước chân thành nếu có, sẽ sáng tỏ với thời gian!



5. Những thăng trầm, ngụy tín, từ khi thống nhất :

Thống nhất đất nước xong là những chiến dịch bôi xóa, tịch thu, cấm đoán những văn-hóa phẩm của miền Nam 'thua cuộc', là tù đày, tra khảo những người làm văn-hóa văn-học ở miền đó. Chúng tôi đã có dịp viết về những sự kiện văn-hóa này trong bài "Văn học tự do khai phóng vẫn là nguồn hy vọng!"[26], do đó ở đây chỉ ghi lại đôi điều.

Từ Đề Cương về Văn-hóa Việt Nam (1943) qua thời kháng-chiến chống Pháp, chống Mỹ, văn-học đã bị chính-trị và guồng máy hóa, cơ cấu hóa, từ chủ đạo tiến sang độc tôn. Văn-học trong một thời-gian dài đã bị dùng như phương tiện, công cụ, chức năng bị hạ thấp ở giáo dục, tuyên truyền, trở nên công thức, dần dà qua thời Đổi Mới (1987) mới nhận ra thêm chức năng thẩm mỹ (mỹ cảm) và tính đa diện của văn-chương! Hiện thực rời sử thi, chỉ thị để xuống đường, đụng đến đời thường và con tim có những mạch máu. Từ đó sinh ra những nỗi buồn thật của chiến-tranh, những hiện thực của những Bến Không Chồng (Dương Hướng), Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma (Nguyễn Khắc Trường), Bước Qua Lời Nguyền (Tạ Duy Anh), v.v. Chu Lai phải Ăn Mày Dĩ Vãng, Lê Lựu phải trở về Thời Xa Vắng, Trần Mạnh Hảo phải Ly Thân, tất cả đã phải trở về quá khứ để có thể sống đời thường hôm nay, dùng quá khứ làm chỗ dựa tinh thần. Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh - được viết với tiềm thức, với ký ức trí tưởng và với tưởng tượng, đã nương theo phong trào Cởi Trói để viết công khai rằng người lính đã có thể nghe và nhìn thấy "những lời đồn đại, những sấm truyền và những lời tiên tri" (bản 1989, tr. 15), "những linh hồn lồm xồm lông lá", râu tóc quá dài, cởi trần truồng ngồi trên một thân cây "tay cầm lựu đạn"; những "bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay". Những hồn ma của đồng đội từng là những con người biết cầm súng, biết yêu thương, được người sống kêu gọi "Anh là ai? Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi". Đời lính phải chứng kiến biết bao cái chết nhưng với Kiên, những cái chết ấy sao thảm thương, đau đớn quá! Có những người chết mà không được một nấm mồ, chết mà không còn nguyên vẹn thân xác để hồn mãi lang thang: "hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người". Có những người chết trở thành "đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự ". Bao nhiêu cái chết dồn dập về trong tâm trí Kiên. Truyện là "bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà. Những di vật và những bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy". Nếu trước đó thơ văn của Chế Lan Viên, Tố Hữu, v.v. rùng rợn thì vì phong phú tưởng tượng hơn là hiện thực, thì rùng rợn của Nỗi Buồn Chiến Tranh là của đời thường. Đây là tiểu-thuyết về một thế giới dị thường, về đêm tối - theo tác-giả, biểu tượng của chiến tranh là bóng đêm và những cơn mưa dày dặc trong rừng sâu! Tưởng huyền ảo, rùng rợn mà là hiện thực sống qua, do đó đã thành công gây được nơi người đọc những cảm xúc đau xót, ghê tởm chiến-tranh và con người, mở ra một tính nhân-bản như một khám phá mới, một tìm thấy (vì có đi tìm)!

Sau 1975, guồng máy "chiến thắng" tung hàng loạt ấn phẩm gọi chung là "thơ văn cách-mạng, kháng-chiến chống Pháp và chống Mỹ", nào là anh hùng ca, trường ca, hành, ... Người viết "lớn" có (Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, v.v.) "nhỏ" có, từ bưng biền ra (Anh Đức, Lý Văn Sâm,..), từ vùng nằm ra mặt (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Bảo Cự, Cung Tích Biền, Thế Hoài, Trần Hữu Lục, v.v.). Văn thơ yêu nước và cách-mạng trong chiến-tranh 1945-54 (và cả 1957-1975) đã không thật sự có phần phản kháng, như sau 1987 cho đến nay. Trong vùng kiểm soát của đảng cộng-sản Việt-Nam, thơ văn phải phản ánh hiện thực theo quỹ đạo chính thức (chủ nghĩa hiện thực xã-hội chủ-nghĩa) - ngay đến 2005 mà Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu viết theo linh cảm của thế hệ trẻ về tổ quốc mà hãy còn bị phê phán là không biết lịch-sử, quá-khứ, chiến-tranh nên đã "bắn súng lục và nã đạn vào quá-khứ". Hay truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đăng ba kỳ trên báo Văn Nghệ, và nhà xuất bản Trẻ in 2005, sau bị công văn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau quy kết tội nhà văn trẻ thuộc diện quản lý của mình viết truyện đó có ý bôi xấu hiện thực quê hương vùng miền (!).

Văn chương kháng chiến cũ là tô hồng nên đã xa, sai sự thật, còn những Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, v.v. sau này đã dũng cảm khi viết ra một số sự thật khác với chính thức, đó là phe bộ đội cũng có những tổn thất và những hành động tàn ác. Văn thơ kháng chiến cũ, đã chỉ vẽ ra được cái đại thể, cái đa số tốt đẹp, cái chiến thắng, còn thì kỵ tránh nói đến phần mất mát và xấu xa. Thường được tiếng nói chính thức xem đơn lẻ chứ không thuộc về bản chất của quân cách mạng. Thật ra, đã không ai viết thật (đúng sự kiện, thật lòng, thật biết) vì đã chỉ làm nô lệ cho một lý thuyết giáo điều, một ý thức hệ, ngày càng mơ hồ và cả bất lực! Đề cập đến tiêu chuẩn, vì văn thơ nào không theo đúng hai phương pháp đó, đều bị coi l
Về Đầu Trang Go down
 
VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC PHẦN 2
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» VÀI GHI NHẬN VỀ VĂN HỌC YÊU NƯỚC
» Mặt trăng có nước: Những chứng cứ không thể phủ nhận
» Đề bài : Phân tích nhân vật Tnú.
» IZ SMS v1.6 - Một phần mềm gửi tin nhắn miễn phí khác
» PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TNÚ TRONG TÁC PHẨM "RỪNG XÀ NU" CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN TRUNG THÀNH.

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,.::HAPPY A1::.°º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,¸ :: Chuyên mục dành riêng cho A1 :: °º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,¸ A1 THƯ QUÁN °º¤ø,¸¸,ø¤º°`°º¤ø,¸ :: VĂN - THI ĐÀN-
Chuyển đến 
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất